Phòng Tránh Thiên Tai Và Ứng Phó Với Biến Đổi Khí Hậu

Phòng Tránh Thiên Tai Và Ứng Phó Với Biến Đổi Khí Hậu

Là một quốc gia vùng nhiệt đới với đường bờ biển dài hơn 3.000 km, nơi sinh sống của hơn 1.300 loài sinh vật biển, Việt Nam sở hữu tất cả lợi thế và tiềm năng để phát triển một ngành thủy sản trù phú.

Là một quốc gia vùng nhiệt đới với đường bờ biển dài hơn 3.000 km, nơi sinh sống của hơn 1.300 loài sinh vật biển, Việt Nam sở hữu tất cả lợi thế và tiềm năng để phát triển một ngành thủy sản trù phú.

Trước hết, chúng ta nên làm rõ về khái niệm Biến Đổi Khí Hậu (BDKH) là gì?

Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, BDKH phản ánh sự thay đổi dài hạn về nhiệt độ và các hiện tượng thời tiết. Những thay đổi này là tự nhiên, nhưng kể từ những năm 1800, tác động của con người là nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu, chủ yếu do đốt nhiên liệu hóa thạch (như than, dầu và khí đốt) tạo ra khí giữ nhiệt.

BDKH có thể gây ra những tác động nghiêm trọng đối với môi trường, nền kinh tế và xã hội, bao gồm tăng mực nước biển, sự biến đổi của môi trường sống, tăng tần số của các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán và lũ lụt, và tác động đến năng suất nông nghiệp.

Nông nghiệp "thuận thiên" sử dụng các kỹ thuật canh tác thích ứng với BDKH, giúp người dân giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Điều này rất quan trọng đối với Đồng bằng sông Cửu Long, một vùng đất dễ bị tổn thương bởi thiên tai.

“Thuận thiên" giúp được gì cho môi trường?

"Nông nghiệp 'thuận thiên' mang đến lợi ích cho môi trường qua việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Sử dụng phương pháp canh tác bền vững giúp bảo vệ đất, nước, và rừng. Điều này cải thiện chất lượng đất, giảm ô nhiễm môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học, nhờ vào các biện pháp canh tác thân thiện với môi trường và duy trì cân bằng sinh thái.

Ngoài ra, nông nghiệp 'thuận thiên' cũng giúp giảm rủi ro từ thiên tai, bao gồm BDKH và xâm nhập mặn, thông qua việc áp dụng các kỹ thuật canh tác thích ứng với BDKH, giúp người dân giảm thiểu thiệt hại từ các sự kiện thiên tai."

Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên

Dự án "Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên": đi cùng sự phát triển của nông dân nữ

Tại Hậu Giang và Cần Thơ hiện nay, thu nhập của các hộ nông dân nữ ở tỉnh còn thấp và không ổn định, do phụ thuộc vào diện tích canh tác nhỏ, năng suất thấp, và chi phí sản xuất cao. Bên cạnh đó, nông dân nữ thiếu kiến thức và kỹ năng sản xuất nông nghiệp bền vững, dẫn đến suy thoái môi trường và sức khỏe, cũng như gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường và các dịch vụ hỗ trợ.

Vì vậy mà dự án "Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên đã được cho ra đời vào năm 2017. Đây là một dự án quan trọng của công ty Abavina, nhằm hỗ trợ phụ nữ ở Hậu Giang và Cần Thơ trong việc phát triển sinh kế xanh. Từ khi triển khai, dự án đã có ảnh hưởng tích cực bằng cách nâng cao thu nhập, cải thiện môi trường và sức khỏe cho cộng đồng nông dân nữ ở các tỉnh này. Ngoài ra, dự án cũng đã đóng góp vào việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên

Dự án đang tập trung vào những mục tiêu như:

Cùng nông hộ xây dựng phương án sinh kế nông nghiệp dựa vào tài nguyên bản địa được thiết kế tùy chỉnh theo đặc điểm của từng nông hộ, theo hướng tối ưu hoá trên tài nguyên sẵn có và tăng thu nhập

Đồng hành, huấn luyện nông hộ biết tổ chức và quản lý kinh tế hộ gia đình, phát triển tư duy tự chủ, năng lực tự chủ và năng lực hợp tác của nông hộ

Liên kết nông hộ tham gia chuỗi cung ứng nông sản của Abavina; Kết nối thị trường & phân phối sản phẩm đâu ra

Thúc đẩy hợp tác phát triển giữa nông hộ và các bên liên quan, thúc đẩy kết nối, học hỏi, hợp tác nguồn lực

Tạo điển hình sản xuất và lan tỏa phương pháp thực hành để thúc đẩy hình thành cộng đồng nông nghiệp quy mô nhỏ dựa vào tài nguyên bản địa. Theo đó tài nguyên địa phương tối ưu hoá trong mô hình sản xuất tuần hoàn, khai thác bền vững và phục hồi hệ sinh thái.

Phát triển các dòng sản phẩm giá trị gia tăng (nông sản, thảo dược) từ tài nguyên bản địa, tạo giá trị gia tăng cho nông hộ sản xuất, người tiêu dùng và địa phương

Phát triển thị trường, phân phối sản phẩm cho nông hộ, và xây dựng thương hiệu nông sản thuận tự nhiên Abavina

Truyền thông và thúc đẩy nhân rộng mô hình cộng đồng nông nghiệp dựa vào tài nguyên bản địa

Đến nay, dự án đã đạt được những kết quả và tác động tích cực, góp phần nâng cao sinh kế, cải thiện môi trường và sức khỏe cho cộng đồng nông dân nữ ở tỉnh Hậu Giang và Cần Thơ.

Năng suất và chất lượng nông sản từ các hộ nông dân đã trải qua sự cải thiện đáng kể, điều này đã dẫn đến việc tăng thu nhập trung bình của họ lên tới 30%.

Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên

Ngoài ra, các hộ nông dân đã tích lũy kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực hiện sản xuất và kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp bền vững. Trong đó nông dân nữ đã có cơ hội tiếp cận thị trường và các dịch vụ hỗ trợ, đồng thời họ đã xây dựng được vị thế và tiếng nói trong cộng đồng. Qua đó,nhận thức về việc bảo vệ môi trường đã được nâng cao trong cộng đồng các hộ nông dân, từ đó môi trường và hệ sinh thái địa phương cũng có nhiều sự cải thiện đáng kể.

Xem thêm: Khóa học e-Learning cung cấp kiến thức kỹ năng cho người trẻ thực hành công việc tạo tác động xã hội bền vững. Và chờ đón khoá học online về ESG chuẩn bị ra mắt.

Các bạn tham gia vào group Sự Nghiệp Hạnh Phúc để cùng với DOC lan tỏa nhiều giá trị tốt đẹp, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau phát triển thật bền vững nhé

Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên

Tác động của biến đổi khí hậu tới các nước đang phát triểnTrong khi biến đổi khí hậu (nắng nóng, hạn hán và mưa lớn...) tác động có mức độ tới các nền kinh tế phát triển thì nó lại là hiểm họa đối với nhiều nước đang phát triển bởi nó ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp và cuộc sống an sinh xã hội của người dân nơi đây.Biến đổi khí hậu gây thiệt hại kinh tế, suy giảm GDP Thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra lên tới 125 tỷ USD/năm, cao hơn tổng số tiền viện trợ của các nước phát triển dành cho các nước nghèo trên thế giới. Và mức tổn thất này có thể sẽ lên tới 600 tỷ USD/năm vào năm 2030. Hậu quả của việc sử dụng quá mức nhiên liệu hóa thạch, gây nên lượng khí thải các-bon đi-ô-xít (CO2) tăng, khiến chính phủ các nước phải hỗ trợ khoảng 150 tỷ USD/năm. Khoản chi phí này đã cản trở việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh dựa vào năng lượng tái tạo. Nếu bỏ được khoản chi phí này, GDP toàn cầu có thể tăng thêm 0,1% mỗi năm và điều quan trọng là lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính có thể giảm đến 6%/năm. Các quốc gia đang phát triển sẽ phải hứng chịu phần lớn thiệt hại về kinh tế do thiếu cơ sở vật chất bảo vệ, điều kiện kinh tế bấp bênh và năng lực tài chính cũng như thiết bị chống biến đổi khí hậu hạn chế.Theo Ủy ban Kinh tế Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê của Liên hợp quốc (ECLAC), thiệt hại hằng năm do thiên tai ở khu vực này vào khoảng 8,6 tỷ USD trong giai đoạn 2000 - 2008. Nếu không có các biện pháp ứng phó, thiệt hại do biến đổi khí hậu năm 2100 của khu vực Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê sẽ chiếm tới 137% GDP (khoảng 250 tỷ USD). Mức thiệt hại trung bình do biến đổi khí hậu gây ra đối với 4 nước đang phát triển Đông Nam Á (In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Thái Lan và Việt Nam) tương đương 6,7% GDP vào năm 2100, tức gấp đôi mức thiệt hại trung bình trên thế giới. GDP của các nước châu Phi và Ðông Á sẽ thiệt hại từ 4%-5% nếu nhiệt độ trái đất tăng 2 độ C.Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nhiều của biến đổi khí hậu do đặc điểm có bờ biển dài và các vùng châu thổ đất thấp dễ bị ảnh hưởng của bão, lốc, lượng mưa cao và thất thường. Trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI, mỗi năm Việt Nam thiệt hại từ 1%-1,5% GDP do biến đổi khí hậu. Theo dự báo của các nhà khoa học, mực nước biển sẽ dâng lên 5cm mỗi năm và nếu nước biển dâng 1m sẽ làm giảm 7% sản luợng nông nghiệp và 10% GDP và nếu dâng lên từ 3-5 m thì điều này đồng nghĩa với " thảm họa sẽ xảy ra" ở Việt Nam. Biến đổi khí hậu làm giảm sản lượng lương thực, tăng nghèo đóiBiến đổi khí hậu làm sản lượng nông nghiệp bấp bênh, đẩy hàng trăm triệu người có thể lâm vào nghèo đói. Châu Phi có nguy cơ mất 30% sản lượng ngô vào năm 2030 do biến đổi khí hậu. Tình trạng khí hậu nóng lên làm giảm năng suất các vụ mùa tại nhiều khu vực trên thế giới. Theo đánh giá của Ngân hàng châu Á (ADB), nếu nhiệt độ bình quân tăng lên 1độ C thì năng suất lúa sẽ giảm 10%, sản lượng gạo có thể giảm 50% cho đến năm 2100 và điều này vô cùng quan trọng với những quốc gia như Việt Nam, Thái Lan. Thực trạng này sẽ đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và ảnh hưởng đến hàng trăm triệu người ở các nước đang phát triển, bởi vì cứ 1 tỷ người dân có mức sống dưới 1USD/ ngày thì có đến 750 triệu người phụ thuộc vào nông nghiệp. Theo WB, chỉ cần nhiệt độ trái đất tăng lên thêm 2 độ C cũng có thể khiến 400 triệu người có nguy cơ bị đói và 2 tỷ người thiếu nước dùng. Biến đổi khí hậu tác động tiêu cực đến thời vụ sản xuất nông nghiệp, làm thay đổi cấu trúc mùa, quy hoạch vùng, kỹ thuật tưới tiêu. Sự thay đổi thời tiết dẫn đến phát sinh bệnh mới đối với trồng trọt và chăn nuôi và có nguy cơ phát triển thành đại dịch bệnh.Thời tiết khắc nghiệt ảnh hưởng đến sản lượng nông nghiệp và làm tăng giá lương thực chủ yếu là ngũ cốc - một loại lương thực rất quan trọng đối với các hộ dân nghèo ở các nước đang phát triển. Theo báo cáo của WB, giá gạo ở Mum-bai (Ấn Độ) đã tăng 25% vào tháng 8-2009 do những cơn mưa như trút nước vào đúng thời điểm thu hoạch lúa. Sản lượng lúa gạo của Ấn Độ cũng bị giảm 17 triệu tấn so với mức thu hoạch được 82 triệu tấn năm 2008. Bão Ketsana và Parma hồi tháng 10-2009 đã khiến cánh đồng lúa đang chờ thu hoạch của Phi-líp-pin bị ngập nước, làm giảm 1 triệu tấn lúa gạo và buộc nước này phải mua thêm 300.000 tấn gạo trên thị trường thế giới.Hiện nay trên thế giới có khoảng 3 tỷ người đang sống trong các khu vực khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đến cuối thế kỷ XXI, con số này sẽ tăng lên gấp đôi. Và với tác động không ngừng của biến đổi khí hậu, trong một thời gian nữa, hàng trăm triệu người trên thế giới sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu lương thực và thực phẩm. Các quốc gia Băng-la-đét, Mê-hi-cô, và Cộng hòa Dăm-bi-a có tỷ lệ dân số lâm vào cảnh nghèo lớn nhất, với tỷ lệ lần lượt là 1,4%, 1,8% và 4,6% mỗi năm bởi các vấn nạn về khí hậu. Điều này đồng nghĩa với việc thế giới sẽ có thêm 1,8 triệu người bị bần cùng hóa ở Băng-la-đét, Mê-hi-cô và có thêm nửa triệu người ở Cộng hòa Dăm-bi-a. Biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng đến tính mạng, tài sản và an sinh xã hội của người dânTheo Chương trình phát triển (UNDP) của Liên hợp quốc, hằng năm biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng đến 262 triệu người, trong đó phần lớn thuộc các nước đang phát triển và nó đang trở thành thảm họa lớn nhất của nhân loại. Năm 2008, số người bị mất nhà cửa do thiên tai như bão, lũ, động đất.... đã lên tới 36 triệu người (gấp 4 lần so với số người bị mất nhà cửa trong các cuộc xung đột và chiến tranh trên toàn cầu). Số người bị tác động bởi hạn hán, nước biển dâng cao... thậm chí còn lớn hơn nhiều. Việt Nam, In-đô-nê-xi-a là những quốc gia đang phát triển phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, của nhiệt độ tăng cao và lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Biến đổi khí hậu đã làm mực nước biển dâng khiến In-đô-nê-xi-a mất đi một số lượng lớn các đảo, trong khi vùng duyên hải của Việt Nam cũng có nguy cơ bị nước biển “xóa sổ” hoàn toàn. Hằng năm, bão lũ ở Đông Nam Á đã khiến hàng nghìn người thiệt mạng, gây thiệt hại hàng nghìn tỷ USD. Trận động đất hồi tháng 10-2009 tại In-đô-nê-xi-a làm hơn 1.100 người thiệt mạng và gần 4.000 người bị chôn vùi trong đống đổ nát, hàng chục nghìn người bị mất nhà cửa và hàng trăm triệu người phải di cư tìm đất sống. Nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu cũng sẽ làm mất đi 12,2% diện tích đất của Việt Nam, đe dọa nơi sinh sống và sản xuất của 17 triệu người. Nếu nước biển dâng cao 1m, sẽ làm ngập 0,5 triệu ha lúa ở đồng bằng sông Hồng, và 1,5-2 triệu ha lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. Lũ lớn cũng làm cho 90% diện tích của khu vực đồng bằng sông Cửu Long bị ngập từ 4-5 tháng mỗi năm. Ngược lại, mùa khô lượng nước ở khu vực này lại giảm 29% gây ra tình trạng hạn hán trầm trọng. Dự báo, nếu tốc độ thải khí CO2 vẫn tiếp tục diễn ra như hiện nay thì nhiệt độ trung bình trái đất sẽ ấm lên 4 độ C vào năm 2060, đe dọa tới nguồn nước của gần 50 % dân số thế giới, gây thiệt hại rất lớn tới vật nuôi và cây trồng.Giải pháp ứng phó với biển đổi khí hậuKhông phải ngẫu nhiên Hội nghị "Liên kết chống biến đổi khí hậu" diễn ra ở Cô-pen-ha-ghen (Đan Mạch) tháng 12-2009 thu hút được sự quan tâm của mọi quốc gia. Đối phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ cần thiết để thực hiện công bằng xã hội và giảm nghèo. Trên thực tế, hiện các quốc gia trên thế giới đang phối hợp ở các tầng cấp khác nhau thực hiện các giải pháp ứng phó với sự biến đổi khí hậu.Cung cấp rộng rãi hệ thống thông tin, cảnh báo sớm đối với biến đổi khí hậu và phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, tư nhân, các tổ chức phi chính phủĐể đối phó hiệu quả với vấn đề biến đổi khí hậu đòi hỏi công tác dự báo, cảnh báo phải sớm và chính xác. Đây là giải pháp mang tính tập thể. Các quốc gia cần mở rộng mạng lưới quan trắc, bổ sung các trạm quan trắc chất lượng nguồn nước, chất lượng không khí, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao nghiệp vụ của đội ngũ dự báo viên, nâng cấp công tác dự báo thiên tai. Ngoài ra, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ. Khác với nông dân tại các nước phát triển, nông dân ở các nước đang phát triển rất ít được cập nhật về tình trạng khí hậu nơi mình sinh sống và canh tác. Do đó, các giải pháp đến với họ rất khó khăn. Vì vậy, mô hình phối hợp giữa chính quyền địa phương, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ được xem là cần thiết. Giải pháp này đã được áp dụng tại Ê-thi-ô-pi-a và đã cho thấy kết quả tốt. Chương trình tập trung vào ngôi làng A-di Ha, nơi có 40% hộ trồng “teff” - một loại ngũ cốc. Mục đích của chương trình là phát triển cách thức quản lý đối phó với rủi ro, trong đó có cải thiện các giải pháp quản lý đất đai, chuyển giao công nghệ và tăng tính cạnh tranh cho nông sản. Giải pháp này đã giúp nông dân vững tin và chủ động hơn với các vụ mùa, giảm nhẹ tác hại do thiên tai gây ra. Nghiên cứu các giống cây lương thực chịu đựng với thời tiết thay đổi Tình trạng khí hậu nóng lên đã và đang làm giảm năng suất các vụ mùa tại nhiều khu vực trên thế giới. Nhiệt độ trái đất tăng cao, dự báo sẽ làm giảm sản lượng các loại cây lương thực thiết yếu như lúa, lúa mạch từ 20%-40%. Khí hậu nóng lên cũng làm đất mất độ ẩm, khô cằn và dẫn đến nguy cơ mất mùa cao. Vì vậy, cần tập trung đầu tư vào các dự án hạ tầng có quy mô lớn để đối phó với hạn hán, lũ lụt, nắng nóng và mưa lớn đang ngày càng nhiều hơn và với cường độ mạnh hơn. Theo dự báo của các nhà khoa học, thời tiết nóng sẽ thường xuyên xuất hiện trong những thập kỷ tới, do vậy, giải pháp tiếp theo là phải nhanh chóng nghiên cứu các giống cây lương thực có khả năng thích nghi hơn với khí hậu này. Chính vì vậy, tại bang An-đra Pra-đét của Ấn Độ, các nhà khoa học đã giúp người nông dân tìm ra những loại cây trồng có khả năng chịu khô hạn, như cây kê thay vì trồng lúa.Còn tại khu vực Đông Nam Á, quá trình phát triển ven biển, đánh bắt quá mức, sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp và việc dinh dưỡng đất bị cuốn trôi đang khiến khu vực này chịu nhiều sức ép từ ô nhiễm công nghiệp. Theo Ủy ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), 17% khí thải gây hiệu ứng nhà kính được sản sinh từ việc triệt phá rừng. Đây là nguồn khí thải độc hại lớn thứ 2 sau nhiên liệu hóa thạch. Nếu không có giải pháp ngăn chặn triệt để việc phá rừng (nhất là rừng nhiệt đới), lượng khí thải CO2 thoát ra sẽ tăng rất lớn, thậm chí vượt lượng khí thải của nhiên liệu hóa thạch nhiều lần. Vì vậy, việc trồng rừng và tăng cường quản lý rừng sẽ giúp giảm trừ lượng khí thải, giảm nhiệt độ không khí và quan trọng là giảm trừ được thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra. Chuyển đổi các hệ thống năng lượng theo hướng sử dụng hiệu quả hơn và công nghệ tiêu thụ các-bon thấp hơnSự tăng trưởng kinh tế cao của các nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á kèm theo mật độ đô thị hóa dày, nạn chặt phá rừng bừa bãi và những thay đổi đáng kể về mục đích sử dụng đất đã khiến các nước đang phát triển ở khu vực này phải trả giá đắt về môi trường. Than đá vẫn là nguồn nhiên liệu chính trong khu vực và hầu hết các nước đều có nhu cầu cao về năng lượng phục vụ giao thông vận tải và phát triển đô thị. Nếu cứ tiếp tục duy trì mô hình tăng trưởng kinh tế sử dụng công nghệ các-bon cao sẽ sinh ra nhiều khí thải gây hiệu ứng nhà kính hơn, và cuối cùng dẫn đến biến đổi khí hậu. Khí các-bon-níc (CO2) là loại khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh nhất. Theo Cơ quan Năng lượng quốc tế, khí thải CO2 sẽ tăng lên 130% vào năm 2050. Vì vậy, các nước đang phát triển phải thực hiện ngay giải pháp thải ít loại khí này để tránh phải sử dụng hạ tầng kinh tế các-bon cao. Ngoài ra, cộng đồng quốc tế cũng cần tăng cường đầu tư để chuyển dần nền kinh tế toàn cầu sang nền kinh tế thải ít khí các-bon.Giải pháp "cơ chế phát triển sạch" (CDM) cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kínhPhát triển kinh tế cần đi đôi với giảm thiểu khí các-bon, giảm phát thải khí nhà kính. Điều này sẽ giúp làm giảm chi phí để đối phó với thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra từ mức 5% GDP toàn cầu xuống còn khoảng 1% GDP hằng năm. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nếu không cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính thì nhiệt độ trung bình tại khu vực Đông Nam Á sẽ tăng thêm 4,8 độ C đến năm 2100, khiến mực nước biển dâng cao thêm 0,7m. Hậu quả là sản lượng lúa của 4 nước Đông Nam Á gồm Phi-líp-pin, Việt Nam, Thái Lan và In-đô-nê-xi-a có thể giảm tới 50%. Theo Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) để nhiệt độ trái đất không tăng quá 2 độ C từ nay đến năm 2100, thế giới cần giảm 60% lượng khí thải CO2 liên tục từ nay đến năm 2050.Với giải pháp này, các nước có lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính giảm thiểu sẽ được cấp Chứng chỉ xác nhận giảm phát thải (Certified Emission Reduction - CER) hay còn được gọi là Chứng chỉ các-bon. Khi có loại chứng chỉ này, một nước có thể chuyển nhượng “quyền phát thải” của mình cho các nước khác để được hưởng lợi ích kép (win - win gains). Thu nhập từ việc chuyển nhượng Chứng chỉ các-bon và Thực hiện được “mô hình phát triển sạch”, đồng nghĩa với “phát triển bền vững”. Từ đó “quyền phát thải” trở thành một loại hình tài nguyên mới có ý nghĩa xã hội hơn bất cứ tài nguyên nào. Ðể tăng nguồn tài chính của mình, các nước kém phát triển sẽ phải bán tài nguyên cho các nước phát triển hơn. Mỹ là quốc gia tiêu thụ nhiều dầu nhất thế giới tiếp đến là Trung Quốc và Nhật Bản. Các quốc gia này chắc chắn thuộc nhóm phát thải lớn và họ có nhu cầu mua tài nguyên phát thải của các nước khác, đặc biệt từ các nước có nền công nghiệp kém phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên thụ động chờ đợi việc giảm khí thải nhà kính trên phạm vi toàn cầu, mỗi quốc gia cần phải có một chương trình đủ mạnh để vừa tham gia tích cực nhất vào việc giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính, vừa xây dựng hệ thống các công trình hạ tấng kỹ thuật và xã hội.Giải pháp phát triển nhiên liệu sinh học Biofuel là loại nhiên liệu sinh học sử dụng ngũ cốc làm nguyên liệu. Các nước phát triển đang nỗ lực tìm cách thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng nhiên liệu sinh học. Phần lớn lượng ethanol (dùng để chạy xe hơi) sản xuất từ ngũ cốc của Mỹ được dùng để xuất khẩu sang châu Âu, nơi có giá cao hơn ở Mỹ. Hiện nay tồn tại một nghịch lý là trong khi nhiều quốc gia đang phát triển khác, đặc biệt ở châu Phi, nạn đói vẫn đang hoành hành, thì ngũ cốc ở các nước phát triển lại được dùng để sản xuất ethanol chạy xe hơi. Vài thập kỷ gần đây giá lương thực luôn có xu hướng tăng. Vì vậy, nỗ lực sản xuất nhiên liệu sạch và nỗ lực xóa đói giảm nghèo ở các quốc gia đang phát triển cần theo nguyên tắc đồng phát triển (co-development) nhằm đạt sự cân bằng giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển để bảo đảm phát triển bền vững.Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) kêu gọi thế giới cần giảm số lượng phương tiện vận tải sử dụng động cơ nhiên liệu hóa thạch từ mức 95% hiện nay xuống 40% vào năm 2030. Các phương tiện chạy bằng điện và phương tiện hy-brít (vừa chạy bằng điện vừa chạy bằng xăng, dầu) cần chiếm đa số trong các phương tiện mới sản xuất trong 20 năm tới.Thế giới cần đầu tư tới 10 nghìn tỷ USD trong giai đoạn 2010 - 2020 để ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Số tiền khổng lồ này chủ yếu đầu tư vào việc phát triển năng lượng sạch như năng lượng Mặt Trời, xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới và các nguồn năng lượng tái sinh khác để giảm sự nóng lên của Trái đất. Liên hợp quốc đề nghị xây dựng Quỹ Năng lượng sạch toàn cầu để hỗ trợ các nguồn năng lượng tái sinh nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ năng lượng sạch cho các nước đang phát triển. Quá trình này sẽ giúp các nước nghèo tham gia hiệu quả chương trình sản xuất năng lượng sạch mà vẫn đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế. Sự giúp đỡ kinh tế của các nước giàu để ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu có vai trò rất lớn. Tổ chức Viện trợ quốc tế Oxfam kêu gọi các nước phát triển đầu tư 150 tỷ USD/năm cho các chương trình tài trợ cắt giảm khí thải và thích nghi với tình trạng biến đổi khí hậu. Tổ chức Liên hợp quốc cũng đề nghị các nước giàu cần dành ra 500 tỷ USD/năm từ nay đến năm 2030 (khoảng 1% GDP) để hỗ trợ các nước đang phát triển và các nước nghèo chống biến đổi khí hậu, bởi vì đây là vấn đề toàn cầu, cần có sự chung tay của cộng đồng quốc tế. Số tiền này sẽ giúp chi trả cho những kế hoạch giảm khí thải bằng việc sử dụng các công nghệ tốt hơn cho môi trường, tránh sự thoái hóa rừng và thích ứng với biến đổi khí hậu của các nước đang phát triển./.

(TN&MT) - Các công ty bảo hiểm cho biết chiến lược của Liên minh châu Âu (EU) để thích ứng với các rủi ro của biến đổi khí hậu cần phải chủ động và tham vọng hơn nhiều để giảm thiểu rủi ro thiên tai như lũ lụt.

Cờ Liên minh châu Âu bay phấp phới bên ngoài trụ sở Ủy ban châu Âu ở Brussels, Bỉ vào ngày 25/6/2020. Ảnh: Reuters

Ủy ban châu Âu đang yêu cầu xem xét về chiến lược hiện tại của EU để thích ứng với biến đổi khí hậu, được đề ra vào năm 2013 và cân nhắc nếu thay đổi, cần phải thực hiện những thay đổi nào.

Liên đoàn Bảo hiểm Châu Âu (Insurance Europe) cho rằng chiến lược của EU cần chuyển sang cách ứng phó phòng ngừa chủ động hơn. "Điều này nên bao gồm việc thực thi các chính sách bất lợi cho rủi ro, chẳng hạn như quy chuẩn xây dựng, phòng chống lũ lụt và tránh xây dựng trong các khu vực rủi ro cao", Liên đoàn Bảo hiểm Châu Âu cho biết.

Liên đoàn này cho rằng, chiến lược ban đầu năm 2013 của EU rất hữu ích, nhưng nó không giải quyết được đầy đủ tác động của biến đổi khí hậu trong tương lai và không đặt trọng tâm vào giai đoạn “trước thảm họa”.

Theo Liên đoàn, với các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng thường xuyên và nghiêm trọng, việc giảm thiểu tác động kinh tế, xã hội và môi trường do biến đổi khí hậu là không đủ và cần tập trung hơn vào việc thích ứng. Cụ thể, cơ quan này kêu gọi công bố dữ liệu chất lượng cao về các biện pháp thích ứng và EU tìm hiểu việc sử dụng các quan hệ đối tác công tư để đảm bảo các biện pháp thích ứng được thông qua.

“EU cũng cần cải thiện khả năng của các công ty bảo hiểm bằng cách phối hợp với các quốc gia để đảm bảo thực thi các biện pháp thích ứng trên toàn khu vực, qua đó khuyến khích các hành vi phòng ngừa”, Liên đoàn Bảo hiểm Châu Âu nhấn mạnh.