Đặc điểm của học viên học tiếng Đức tại Việt Nam.
Đặc điểm của học viên học tiếng Đức tại Việt Nam.
Để áp dụng các phương pháp giảng dạy tiếng Anh hiệu quả cho trẻ, giáo viên cần linh hoạt kết hợp nhiều kỹ thuật khác nhau dựa trên đặc điểm của từng học sinh và môi trường lớp học. Trước hết, cần tạo không khí học tập vui vẻ, tích cực thông qua các hoạt động như phương pháp TPR (Total Physical Response), sử dụng bài hát, kể chuyện, và trò chơi ngôn ngữ để trẻ học một cách tự nhiên. Đồng thời, việc lồng ghép các hoạt động hàng ngày và các công cụ trực quan như flashcards sẽ giúp trẻ ghi nhớ từ vựng dễ dàng hơn.
Quan trọng nhất, giáo viên cần kiên nhẫn, khuyến khích trẻ bằng các hình thức khen thưởng để trẻ cảm thấy tự tin và có động lực trong quá trình học tiếng Anh.
TPR là phương pháp kết hợp giữa ngôn ngữ và hành động, giúp trẻ học thông qua các cử động và phản ứng tự nhiên. Giáo viên có thể yêu cầu trẻ làm theo các lệnh đơn giản như “đứng lên” hay “ngồi xuống”, từ đó giúp các bé nhớ từ vựng và câu lệnh thông qua hoạt động. Áp dụng TPR hiệu quả trong lớp học bằng cách tăng cường hoạt động thể chất và tạo ra các tình huống học tập đa dạng.
Âm nhạc là công cụ tuyệt vời để giúp trẻ ghi nhớ từ vựng và phát âm một cách dễ dàng. Những bài hát tiếng Anh với giai điệu vui nhộn sẽ kích thích hứng thú và giúp trẻ tiếp thu ngôn ngữ tự nhiên. Một số bài hát phổ biến như “Twinkle, Twinkle, Little Star” hay “Head, Shoulders, Knees, and Toes” là những lựa chọn phù hợp cho trẻ mẫu giáo.
Trong thời đại công nghệ phát triển, việc tận dụng các ứng dụng và video học tiếng Anh dành cho trẻ mẫu giáo là rất hữu ích. Nhiều ứng dụng và video được thiết kế riêng cho trẻ em với giao diện sinh động và dễ sử dụng. Một số ứng dụng học tiếng Anh phổ biến như ABC Kids, Monkey Junior sẽ giúp trẻ phát triển khả năng ngôn ngữ một cách tự nhiên.
Tại TSE, các khóa học TESOL không chỉ tập trung vào lý thuyết mà còn chú trọng phát triển kỹ năng thực hành. Bạn sẽ học cách soạn giáo án chi tiết, quản lý lớp học một cách hiệu quả, thông qua đó đánh giá năng lực học viên. Các kỹ năng mềm như kỷ luật bản thân, kỹ năng phỏng vấn, và viết CV chuyên nghiệp cũng được nâng cao, giúp bạn trở thành một giáo viên toàn diện.
Kể chuyện là phương pháp giúp trẻ mẫu giáo tiếp cận ngôn ngữ qua những tình huống giàu ngữ cảnh. Những câu chuyện đơn giản, nhiều hình ảnh, và nội dung gần gũi sẽ khơi gợi trí tưởng tượng và giúp trẻ hiểu từ vựng và ngữ pháp dễ hơn. Chọn những câu chuyện phù hợp với lứa tuổi và sở thích của trẻ là yếu tố quan trọng để phương pháp này thành công.
Dạy tiếng Anh cho trẻ mẫu giáo thông qua phương pháp kể chuyện
TSE không chỉ cung cấp một chương trình đào tạo chất lượng mà còn hỗ trợ bạn sau khi hoàn thành khóa học. Hệ sinh thái hỗ trợ học viên của TSE bao gồm 6 workshop tư vấn nghề nghiệp, Group cộng đồng hơn 45.000 thành viên, hơn 200+ kho video hoạt động lớp học và câu lạc bộ tiếng Anh dành cho giáo viên (Teach-talk) giúp bạn tìm kiếm cơ hội việc làm và áp dụng các kỹ năng mới học được vào thực tiễn.
Việc dạy tiếng Anh cho trẻ mẫu giáo không chỉ đòi hỏi sự sáng tạo và kiên nhẫn mà còn cần áp dụng những phương pháp hiệu quả và tích cực để tạo nên môi trường học tập thú vị và đầy cảm hứng. Khi kết hợp những phương pháp này một cách linh hoạt và sáng tạo, giáo viên có thể đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của trẻ, đồng thời giữ cho các giờ học luôn sôi nổi và đầy hứng khởi.
Bằng những phương pháp trên, giáo viên không chỉ giúp trẻ xây dựng nền tảng vững chắc về ngôn ngữ mà còn khơi gợi sự yêu thích học tập và khám phá ngôn ngữ mới. Đầu tư vào việc áp dụng các phương pháp dạy học hiệu quả và tích cực là bước quan trọng để đảm bảo rằng các buổi học tiếng Anh trở thành một phần vui vẻ và bổ ích trong cuộc sống hàng ngày của trẻ.
Trong lịch sử phương pháp giảng dạy ngoại ngữ (PPGDNN) giảng dạy tiếng luôn gắn liền với các trào lưu trong ngôn ngữ học, tâm lí học và sư phạm học. Theo Celce-Murcia (1991) thì PPGDNN luôn dựa vào ba hòn đá tảng: bản chất ngôn ngữ (giảng dạy tiếng và ngôn ngữ học), bản chất người học (giảng dạy tiếng và tâm lí học), và mục đích giảng dạy và học tập (mục đích của cá nhân và nhu cầu xã hội). Phương pháp giảng dạy là phạm trù cơ bản trong giáo học pháp, thường được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Trong khoa học sư phạm thì nó là phương thức nhận thức, là cách thức nghiên cứu và giải quyết tình huống. Trong PPGDNN nó có nghĩa hẹp hơn: là mô hình tổng hợp hoá quá trình dạy học dựa trên một trong các hướng tiếp cận cụ thể, điển hình cho các phương hướng cụ thể, có thể là việc sử dụng tài liệu giảng dạy, lựa chọn thủ pháp giảng dạy, phương thức tương tác giữa giáo viên và học viên. Dựa trên khái niệm của Anthony (1963) Richards và Rodgers (1986) nhìn nhận phương pháp như một cái ô bao trùm ba cấp độ: lí thuyết (approach - lối tiếp cận), xử lí (design - thiết kế) và ứng dụng thực tế (procedure - qui trình). Các tác giả trên đã giúp chúng ta định hình được cấu trúc của phương pháp bao gồm vai trò giáo viên và học viên, loại hình chương trình, đặc trưng tổ chức quá trình đào tạo và các ngữ liệu giảng dạy. Trong quá trình phát triển, hơn một thế kỉ qua, ngành PPGDNN được biết đến các phương pháp phổ biến như: Phương pháp dịch-ngữ pháp (Grammar-Translation Method), Phương pháp trực tiếp (Direct Method), Phương pháp nghe khẩu ngữ (Audiolingualism, audiolingual method, mim-mem method), Phương pháp nghe nhìn, còn gọi là phương pháp cấu trúc toàn cầu (Audiovisual Method / Structural-Global Method), Phương pháp giảng dạy tiếng theo tình huống, còn gọi là lối tiếp cận bằng lời (Situational Language Teaching – SLT/ The Oral Approach), Phương pháp/ lối tiếp cận tự nhiên (Natural Method / Natural Approach), và Phương pháp giao tiếp, còn gọi là giảng dạy tiếng giao tiếp (Communicative Method/ Communicative Language Teaching (CLT). Cũng cần bổ sung rằng, về thuật ngữ, các nhà phương pháp học có những cách gọi khác nhau. Chẳng hạn, Celce-Murcia (1991) thì đồng nhất gọi chúng là Lối tiếp cận (LTC), ví dụ, LTC dịch-ngữ pháp, LTC trực tiếp, LTC đọc, LTC nghe ngôn ngữ, LTC Tình huống, LTC nhận thức, LTC hiểu và LTC ảnh hưởng nhân văn trong khi đó Richards và Rodgers (1986) lại dùng cả hai thuật ngữ là phương pháp (Phương pháp dịch ngữ pháp) và lối tiếp cận (LTC giao tiếp,LTC tự nhiên).1. Phương pháp dịch ngữ pháp. Phương pháp này hiểu ngôn ngữ như những hệ thống. Lối tiếp cận của phương pháp này là lối tiếp cận nhận thức trong giảng dạy, trong thời kì đầu (thế kỉ 19), nó được sử dụng rộng rãi ở châu Âu để dạy các ngôn ngữ La-tinh và Hi Lạp, sau này là các thứ tiếng Đức, Pháp, Anh. Mục đích giảng dạy của phương pháp này là để đọc các tác phẩm văn học. Ngoại ngữ được nhìn nhận như một bộ môn giáo dục toàn diện với vai trò chủ đạo là phát triển trí tuệ và tư duy lô gic của người học. Phương pháp này chú trọng vào văn viết. Các hình thức giao tiếp bằng lời thường chỉ dùng với mục đích công cụ giảng dạy. Về ngôn ngữ: phương pháp này tập trung vào việc phân tích câu trong văn bản. Thông qua văn bản đó, học viên có thể học thêm từ vựng và học viên luôn được khuyến khích sử dụng từ điển song ngữ, được học từ mới với nghĩa được dịch sang tiếng mẹ đẻ, các dạng bài tập dịch xuôi, ngược. Thi cử cũng lấy dịch làm trọng tâm. Ngữ pháp được học theo phương pháp diễn dịch và mang tính hệ thống, có sử dụng rộng rãi các qui tắc, đồng thời so sánh đối chiếu với tiếng mẹ đẻ. Tiếng mẹ đẻ là nền tảng trong quá trình giảng dạy. Có thể nói học ngoại ngữ bằng phương pháp này, học sinh được nghe giảng giải nhiều về ngoại ngữ, biết nhiều về ngoại ngữ đó. Ưu điểm cơ bản của phương pháp này là học viên được học các tác phẩm văn học nguyên tác, ngữ pháp được học qua tình huống cụ thể, tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ giảng dạy và là đối tượng so sánh đối chiếu của học viên. Tuy nhiên, khi học ngoại ngữ, học viên chủ yếu nghiên cứu các cấu trúc ngữ pháp và chuyên tâm vào dịch nhưng hầu như không dùng được ngoại ngữ để giao tiếp.2. Phương pháp trực tiếp Phương pháp này là một sự phản ứng tích cực của các nhà giáo dục ngôn ngữ đối với Phương pháp dịch ngữ pháp. Theo Celce-Murcia (1991) thì phương pháp này có những đặc điểm chính như hoàn toàn không sử dụng tiếng mẹ đẻ trên lớp, giáo viên thường là người bản ngữ hoặc có năng lực ngoại ngữ cao, thường sử dụng tranh ảnh hoặc hành động để giải nghĩa từ mới, bài học được tiến hành từ các cuộc hội thoại hay những mẩu chuyện vui, thường là liên quan tới những tình huống sinh hoạt hiện đại, giáo viên có thể kết hợp giảng dạy các hiện tượng văn hoá theo phương pháp qui nạp, ngữ pháp cũng được giảng giải theo phương pháp này nhưng không chuyên sâu nghiên cứu và phân tích ngữ pháp như ở phương pháp dịch ngữ pháp. Ưu điểm chính của phương pháp này là học viên có nhiều điều kiện tiếp xúc bằng ngoại ngữ. Đồng thời họ cũng có thể ứng dụng được ngôn ngữ đã học vào các giao tiếp thực tế. Tuy nhiên, người quản lí luôn gặp trở ngại về vấn đề tuyển mộ giáo viên.3.Phương pháp đọc hiểu. Xuất hiện vào những năm 1930 khi hầu hết các cơ sở đào tạo tiếng không có khả năng tuyển mộ những giáo viên đạt yêu cầu. Với phương pháp đọc hiểu, giáo viên không cần phải biết nói giỏi mà chỉ cần có kiến thức từ vựng, ngữ pháp tốt bởi phương pháp này chỉ chú trọng vào kĩ năng đọc. Từ vựng là vấn đề then chốt. Các hiện tượng ngữ pháp chỉ được đề cập nếu trợ giúp quá trình đọc hiểu.4.Phương pháp nghe nói khẩu ngữ.
Người ta nhanh chóng nhận ra được những bất cập của phương pháp đọc vốn chỉ chú trọng vào một kĩ năng mà hoàn toàn bỏ qua nghe-nói. Trong những năm 1940 phương pháp nghe khẩu ngữ bắt đầu hình thành, dựa trên những đặc điểm của ngôn ngữ học cấu trúc và tâm lí học hành vi, và nhanh chóng chiếm ưu thế ở Mỹ khi nhu cầu học ngoại ngữ nhanh đặt ra đối với các lính chiến Hoa Kì. Cũng theo Celce-Murcia thì với phương pháp này, bài học bắt đầu bằng một mẩu hội thoại với trọng tâm kĩ năng theo trật tự: nghe, nói (cơ bản, cần thiết), đọc, viết (chưa cần thiết). Điều đó có nghĩa là chú trọng vào nghe nói – theo đúng tên gọi của nó. Với phương pháp này, ngữ âm rất quan trọng, ngữ pháp giảng dạy theo cấu trúc và luật ngữ pháp dạy theo phương pháp qui nạp. Học viên có thể bắt chước và học thuộc lòng. Giáo viên chỉ cần nắm vững một lượng từ vựng hay cấu trúc hạn chế trong chương trình giảng dạy vì mọi hoạt động và ngữ liệu trên lớp đều được giám sát chặt chẽ.5.Phương pháp tình huống Xuất hiện ở Anh, đồng thời với phương pháp nghe nói. Bản thân phương pháp này có nhiều yếu tố giống phương pháp trực tiếp nhưng có thêm các yếu tố của giáo dục ngôn ngữ. Với phương pháp này ngôn ngữ giao tiếp bằng lời là cơ bản nhất. Các kĩ năng đọc và viết chỉ được tiến hành sau khi giải quyết xong các vấn đề từ vựng, ngữ pháp bằng lời. Người ta giới hạn danh mục các từ vựng tối thiểu bao gồm khoảng 2000 từ hay dùng nhất để có thể giao tiếp bằng tiếng Anh. Về ngữ pháp, học viên chủ yếu học các cấu trúc phổ biến trong giao tiếp hàng ngày. Mục tiêu học tiếng là hình thành khả năng giao tiếp trong ngữ cảnh thực tế như ở bưu điện, ở nhà ga, ở hiệu thuốc v.v. với các loại hình bài tập luyện như sử dụng trong phương pháp nghe nói khẩu ngữ. Chúng ta có thể dễ dàng nhận dạng phương pháp này qua hệ thống giáo trình rất phổ biến tại Việt Nam như Streamlines English Departure/Connection và Destination cùng với các dạng luyện nghe nói trong sêri Speechwork 1,2,3 kèm theo. Không thể phủ nhận tác dụng nhanh chóng của phương pháp này đối với học viên, có nghĩa là có thể giao tiếp ngay sau buổi học đầu tiên, tuy nhiên đây vẫn chỉ là sự đề cao thái quá với ngôn ngữ khẩu ngữ, chú trọng quá nhiều vào cấu trúc nổi, học viên học tiếng theo kiểu bắt chước và học thuộc lòng.6. Phương pháp học tiếng theo cộng đồng (học tư vấn) Charles Curran (1972) tiếp thu tư tưởng giáo dục của Carl Rodgers (dẫn theo Brown, 1994:59) trong mô hình giáo dục “học tư vấn” coi người học trong lớp là một nhóm nhỏ chứ không phải là một lớp lớn với những cá nhân khác nhau, với từng khả năng riêng và hoàn cảnh riêng. Do đó, người học, giống như những bệnh nhân, cần thiết phải được “trị liệu” riêng bệnh, có nghĩa là giảng dạy theo các cách khác nhau. Với phương pháp này giáo viên đóng vai trò tư vấn viên, học viên là người cộng tác (Rodgers, 2001). Học viên, thường ngồi đối diện với nhau trong một nhóm nhỏ theo cộng đồng ngôn ngữ, tranh luận bằng tiếng mẹ đẻ trước, sau đó bằng ngoại ngữ, giáo viên có thể dịch những câu nói đó của học viên sang ngoại ngữ, sau đó học viên nhắc lại lời giáo viên. Phương pháp này chú ý tới tính xã hội trong giảng dạy và tính nhân văn, đồng thời duy trì bầu không khí thân thiện, thoải mái trong lớp học. Tuy nhiên nó thể hiện vô số những khiếm khuyết như chương trình giảng dạy lộn xộn, thiếu tính hệ thống và có thể gây khó khăn cho nhà quản lí khi tìm kiếm giáo viên, vừa biết ngoại ngữ của học viên, vừa phải được đào tạo kĩ càng bộ môn tâm lí học, mới có thể thực hiện tốt vai trò tư vấn khi sử dụng phương pháp này.7. Phương pháp học tiếng thư giãn. Còn gọi là phương pháp Lozanov Năm 1979, một nhà tâm lí sư phạm học người Bulgari tên là Georgi Lozanov, dựa vào những triết lí cơ bản của môn phái yôga, thiết kế nên phương pháp này gọi là Suggestopedia. Ông tin tưởng sâu sắc rằng quá trình học tiếng diễn ra nhanh hơn 25 lần trong điều kiện tập trung tư tưởng cao so với phương pháp thông thường. Lớp học tiếng thường được tiến hành trong điều kiện thư giãn tối đa, khi học viên có thể ngả lưng trên những chiếc ghế nệm êm ái, ánh áng mờ ảo, huyền thoại, lắng nghe những bản nhạc du dương. Trong khi đang thư giãn cao độ thì giáo viên nhẹ nhàng đọc bài, giảng giải từ ngữ. Học viên không cần thiết phải học những hiện tượng ngôn ngữ phức tạp mà chỉ chú trọng vào cách sử dụng ngôn ngữ theo các hình thức đóng vai. Phương pháp này có nhiều ưu điểm, nhất là tạo được một lớp học an toàn, thư giãn cho học viên. Tuy nhiên, giáo viên gặp trở ngại lớn liên quan tới cơ sở vật chất. Hơn nữa, giáo viên dạy theo phương pháp này phải được đào tạo đặc biệt.8. Lối im lặng. Gattegno phát triển phương pháp này năm 1972 với niềm tin vững chắc rằng người học tiếng cần phải học độc lập, tự giác, biết cộng tác với các thành viên khác trong lớp học để giải quyết tình huống. Quá trình học, theo Gattegno, là quá trình tìm kiếm, phát hiện - một xu hướng phổ biến của những năm 1960, giáo viên thuần tuý là người hỗ trợ nhưng hầu hết giữ trạng thái im lặng với những que tính (Cuisinere Rods) màu dài ngắn khác nhau, với các bảng ngữ âm, ngữ pháp dán tường. Học viên tự phát âm, chỉnh sửa lời nói của mình theo chỉ dẫn bằng hành động của giáo viên (trong trường hợp cần thiết). Richard & Rodgers (1986:99) tóm tắt phương pháp này như là phương pháp có khả năng thúc đẩy quá trình học nếu người học sáng tạo chứ không phải thuần tuý học thuộc lòng hay nhắc lại những gì phải học. Đồng thời, học viên được tiến hành xử lí tình huống những ngữ liệu phải học. Tuy nhiên, với phương pháp này, vai trò của giáo viên trên lớp dường như bị lu mờ và giao tiếp tích cực bằng lời của giáo viên bị hạn chế.9. Phương pháp hoàn toàn bằng hành động. James Asher phát triển phương pháp này năm 1977 dựa trên lí thuyết ngôn ngữ học cấu trúc, chủ nghĩa hành vi trong tâm lí học và xu hướng nhân văn trong giảng dạy, theo nguyên tắc của phương pháp tự nhiên. Theo phương pháp này, quá trình học ngoại ngữ cũng giống như quá trình cảm thụ tiếng mẹ đẻ của trẻ em, chúng cũng trải qua thời kì “im lặng”, có nghĩa là cảm nhận âm thanh, những kết cấu phức tạp trước khi biết nói. Hiểu cấu trúc được tiến hành dễ dàng hơn nếu học viên được cảm nhận bằng những hành động cụ thể của những người xung quanh. Những cấu trúc được sử dụng hầu hết là ở dạng mệnh lệnh thức. Học viên nghe “lệnh” như “giơ tay trái lên”, “hãy sờ vào mũi người bên phải”, “đừng đưa chân trái ra phía trước”, “người mặc áo vàng bên cạnh cửa sỗ hãy đi về phía góc trái trên của lớp học” v.v. và hành động theo hiệu lệnh. Phương pháp này tỏ ra đặc biệt hiệu quả đối với trình độ sơ cấp, khá phù hợp với trẻ em học tiếng nhưng có nhiều hạn chế với trình độ nâng cao, và nhiều phiền toái cho học viên lớn tuổi. Một mặt, phương pháp này tạo ra sự an toàn tinh thần cho học viên “chưa cần nói khi chưa sẵn sàng” thì nó vẫn là phương pháp học thụ động, chưa khuyến khích phát triển ngữ năng giao tiếp ở mức độ tự nhiên và cũng khá cứng nhắc bởi trật tự tiến hành kĩ năng nghe trước nói sau trong học tiếng.10. Phương pháp giao tiếp. Hymes (1972), một nhà ngôn ngữ học nhân chủng cùng với Halliday (1973) coi ngôn ngữ hành chức chủ yếu với tư cách là chức năng giao tiếp. Mục đích học và giảng dạy của phương pháp này là đạt được ngữ năng giao tiếp, có nghĩa là đạt được “khả năng không chỉ ứng dụng luật ngữ pháp để hình thành câu đúng mà còn biết dùng đúng lúc, đúng nơi, đúng đối tượng” (Richards và Platt, 1992:65), nói cách khác, thoả mãn được ba yêu cầu: trôi chảy (fluency), chính xác (accuracy), và phù hợp (appropriacy). Với những mục tiêu nổi trội như vậy, hiện nay nó đang giữ vị trí độc tôn trong lịch sử giáo dục nói chung và ngôn ngữnóiriêng. Với phương pháp này, học sinh luôn đóng vai trò làm tâm. Giáo viên thường thiết kế chương trình dựa trên việc phân tích nhu cầu của người học. Các hoạt động trên lớp gắn liền với việc sử dụng tiếng, thông qua đó, học viên nắm thành thạo các chiến lược giao tiếp như: biết hỏi lại khi chưa rõ vấn đề, biết yêu cầu nhắc lại, biết đàm phán thông tin, biết “đưa đẩy” khi nói chuyện một cách tự nhiên v.v. Điều đó cũng có nghĩa là giáo viên biết khai thác tối đa các hoạt động theo nhóm, theo đôi, trình bày vấn đề nhằm giúp người học thực hiện chức năng tích cực, không thụ động tiếp thu. Người học học tiếng bằng sử dụng tiếng (learning by doing), qua các hoạt động giao tiếp, chứ không nghe giáo viên giảng giải về tiếng đang học (learning about the language), các kĩ năng như nghe, nói, đọc, viết được tiến hành đan xen chứ không tách biệt. Học tiếng thực sự là quá trình sáng tạo, chấp nhận mắc lỗi. Ngữ liệu giảng dạy là ngữ liệu nguyên gốc, có nghĩa, được lấy từ cuộc sống chứ không phải được các soạn giả viết ra nhằm mục tiêu sử dụng trên lớp học. Điều đó cũng có nghĩa là học viên có khả năng làm được những việc cụ thể như điền đơn, viết đơn, biết thỉnh cầu, biết xin lỗi trong những tình huống thực tế. Giáo viên thực sự là người tổ chức, người điều hành, người quản lí, người tư vấn (xem thêm Trần Thị Lan, 2004). Một loạt các giáo trình thương mại hiện đại được viết trên cơ sở của phương pháp này, trong đó có giáo trình The New Cambridge English Course của Catherine Walter và Michael Swan (xem thêm Trần Thị Lan, 1998), lần đầu tiên sử dụng ở ĐHNN HN vào những năm 90 cho chương trình A, B, C tại ĐHNN HN, sau là bộ giáo trình chính thức dùng cho chương trình Anh ngữ cho cán bộ công chức và quan chức chính phủ (Còn gọi là Đề án 422), bộ giáo trình Headway, New Headway của John & Liz Soars, hiện nay đang được sử dụng rộng rãi ở các trung tâm Anh ngữ, ở các trường đại học không chuyên, và là giáo trình chính của chương trình đào tạo cử nhân tại chức, giáo trình Proficiency Masterclass của Kathy Gude và Michael Duckworth, được sử dụng tại khoa Anh trường ĐHNN HN, Life Lines của Tom Hutchinson được sử dụng rộng rãi tại các trường đại học không chuyên, khối khoa học xã hội và nhân văn, English Files của Clive Oxenden và Christina Latham-Koenig, được dùng làm giáo trình chính tại nhiều dự án đào tạo Anh ngữ liên kết với nước ngoài, Cutting Edge của Jane Cornyns – tài liệu chính dành cho học sinh học tiếng Anh cơ sở ở một số trung tâm Anh ngữ do người nước ngoài phụ trách. Ngoài giáo trình chính, kể cả môn học được coi là “khô” như ngữ pháp cũng được viết dưới dạng giao tiếp như Communicative Grammar (Ngữ pháp giao tiếp) của Leo Jones mà các giáo viên dạy tiếng có thể khai thác nhiều hoạt động tích cực trên lớp học. Ở Bắc Mỹ cũng có hàng loạt giáo trình được viết ra theo tinh thần của phương pháp này như Interchange và New Interchange, Interactive listening, Interactive reading, Listening in & Speaking out, Academic Encounters: listening, Note-taking, and Discussion v.v. Ưu điểm cơ bản của phương pháp này là người học đóng vai trò tích cực trên lớp, được học những gì mình muốn và được coi là cần thiết. Bản thân phương pháp chú trọng tớI việc sử dụng ngoại ngữ của học viên, học nhận thức mà không khuyến khích học thuộc lòng, khả năng trình bày vấn đề lưu loát, chấp nhận khác biệt ngữ âm. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những tồn tại đáng kể sau hơn 30 năm thịnh hành. Tồn tại này chủ yếu liên quan tới vấn đề lỗi. Do quá chú trọng vào nghĩa và khả năng trình bày vấn đề lưu loát nên giáo viên thường bỏ qua lỗi, khiến cho học sinh có khả năng bị rơi vào tình trạng “trì trệ”(fossilisation). Nhìn chung, sẽ dễ dàng chấp nhận nhận định: không có một phương pháp tối ưu cho tất cả mọi trường hợp. Mỗi phương pháp đều có những ưu và nhược điểm nhất định. Giáo viên cần có khả năng lựa chọn, tổng hợp và khai thác để sử dụng hài hoà các phương pháp sao cho phù hợp với đối tượng giảng dạy.
Bài viết của cô Trần Thị Lan - ĐHHN
Căn cứ Quyết định số 3996/QĐ-BGDĐT do Bộ Giáo dục và Đào tạo ký ngày 06/09/2011, Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh được phép tuyển sinh chương trình Thạc sỹ Giáo dục chuyên ngành Phương pháp Giảng dạy Tiếng Anh từ tháng 10 năm 2011.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay của Việt Nam, chuyên ngành giảng dạy tiếng Anh được chú trọng đặc biệt nhằm đào tạo nguồn nhân lực giảng dạy chất lượng cao, để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Vì lẽ đó, giảng viên chuyên ngành giảng dạy tiếng Anh cần được tiếp cận với kiến thức và phương pháp giảng dạy hiện đại, có khả năng giảng dạy các chương trình ESL/EFT trong nhiều môi trường khác nhau.
Xuất phát từ tình hình thực tế này, Trường ĐH Mở Tp. Hồ Chí Minh liên kết với Trường University Of Southern Queensland thông báo tuyển sinh Chương trình Thạc sĩ Phương pháp giảng dạy tiếng Anh (Master of Education in TESOL).
Chương trình đào tạo đội ngũ giảng viên có năng lực chuyên môn và kỹ năng sư phạm cao, trên cơ sở được trang bị những tri thức khoa học có hệ thống, sâu rộng và hiện đại đồng thời nắm vững cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc vận dụng thể hiện các phương pháp dạy học tích cực, hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học tiếng Anh.
BÀI THAM LUẬN: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÀO TẠO MÔN HỌC KỸ NĂNG CHUYÊN SÂU CỦA LUẬT SƯ TRONG LĨNH VỰC TƯ VẤN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP
(Dành cho khóa đào tạo Luật sư 12 tháng)
LS – LG – TTV.PIAC. Trần Cao Phú
Chủ tịch HĐTV kiêm Giám đốc Công ty luật Hợp danh Trần Cao
Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh
I.Khái quát thực trạng doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế hiện nay:
Sau 22 năm (1995 – 2017), Việt Nam đã từng bước hội nhập toàn diện trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế thế giới, thông qua các điều ước quốc tế song phương và/hoặc đa phương mà Việt Nam đã tham gia ký kết như:
-Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài;
-Công ước PARIS 1883 quy định về quyền ưu tiên Quyền sở hữu trí tuệ đối với bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp;
-Công ước Stockholm (14/07/1967) về thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO;
-Thỏa ước MADRID được sửa đổi năm 1979 và Nghị định thư MADRID liên quan đến Thỏa ước MADRID năm 1989 (Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đăng ký theo Hệ thống MADRID tại Geneva );
-Hiệp ước hợp tác PATENT ( PCT) Quyền sở hữu trí tuệ đối với bảo hộ cho sáng chế của mình ở mỗi nước trong số nhiều nước thành viên khác nhau;
-Hiệp định về thực hiện điều 7 của hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 (gọi là hiệp định trị giá GATT 1994);
-Hiệp định thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ ( BTA) năm 2001;
-Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam, từ ngày 01/01/2009 (Hiệp định TRIPS Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ);
-Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Hàn Quốc, từ ngày 05/5/2014;
-Hiệp định thương mại tự do (FTA với Liên minh Kinh tế Á – Âu, từ ngày 29/5/2014 gồm các nước: Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia và Kyrgyzstan;
-Cam kết Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) năm 2014 -2015;
-Hiệp định thương mại tư do khu vực (RCEP) (ASEAN+6) năm 2015 – 2016 gồm các nước: Trung quốc, Nhật bản, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Australia, New Zealand, Cambodia, Lào, Thái Lan, Philippines, Myanmas, Indonesia, India.
Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục đàm phán gia nhập Hiệp định thương mại tự do với liên minh Châu Âu ( FTA với EU) và Hiệp định thương mại tự do Châu Âu ( EFTA) gồm các nước (Thụy Sỹ, Na-uy, Ai-xơ-len và Lich-ten-xtanh). Riêng Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) năm 2015 – 2016 (gồm các nước Hoa Kỳ, Nhật bản, Malaysia, Singapore, Australia, New Zealand, Canada, Mexico, Chile, Peru) đang trong tình trạng có khả năng không thể thực hiện được nếu Chính phủ Hoa kỳ tuyên bố rút khỏi Hiệp định này.
1.Những thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam:
Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt hiện nay, việc được tiếp cận thị trường một cách tự do và được bảo hộ, tạo ra lợi thế quan trọng giúp các Doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh với các đối thủ khác (hàng hóa, dịch vụ Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu), thông qua các cam kết cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn, ổn định hơn, minh bạch hơn khi tiếp cận các thị trường Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Á, Châu Úc và Cộng đồng chung khối ASEAN.
Đồng thời, môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định với độ mở cao, cũng tạo ra nhiều cơ hội cho các dự án hợp tác, đầu tư giữa các Doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác nước ngoài, qua đó, tăng cường năng lực sản xuất, kinh doanh, tham gia chuỗi giá trị ở phạm vi khu vực và thế giới. Đây là mục tiêu chiến lược, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững với hiệu quả cao cho các Doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của chúng ta.
2.Những khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam:
Theo thông lệ quốc tế, các điều ước quốc tế luôn quy định các nguyên tắc và nghĩa vụ trong thương mại quốc tế như ( Nguyên tắc “có đi có lại”, Nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc”, Nguyên tắc “đối xử quốc gia”). Do đó Hội nhập quốc tế, đồng nghĩa Việt Nam phải mở rộng thị trường nội địa cho các thương nhân nước ngoài tiếp cận một cách tự do thương mại vào thị trường Việt Nam.
Trong khi năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế, doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chỉ mang tính chất dịch vụ - gia công – thương mại và không biết liên kết chặt chẽ lại với nhau nhằm tạo thành một sức mạnh tổng hợp – bền vững – đa ngành nghề. Do đó, sức cạnh tranh trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường Việt Nam sẽ diễn ra rất khốc liệt, mang tính sống còn trong tương lai.
3.Biện pháp khắc phục cho doanh nghiệp Việt Nam:
Để khắc phục những hạn chế trên, Chính phủ Việt Nam quyết định chiến lược tái cấu trúc lại hệ thống các Doanh nghiệp Nhà nước, chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình Công ty cổ phần hoặc Công ty TNHH từ 02 thành viên trở lên, chỉ giữ lại một số Doanh nghiệp nhà nước mang tính chiến lược để điều tiết nền kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô.
Đối với các Doanh nghiệp tư nhân, cần phải xóa bỏ tư duy quản lý theo “ mô hình gia đình trị”, biết tạo sự liên kết giữa các Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành một thể thống nhất thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh ( BCC) tạo thành một sức mạnh liên hoàn – đa ngành nghề ( Association) trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, các nhà quản lý, điều hành Doanh nghiệp phải nhanh chóng đổi mới toàn diện về tư duy gồm:
-Phương thức quản lý: Quản trị doanh nghiệp kết hợp với quản trị luật để hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả của bộ máy;
-Đổi mới công nghệ và tiếp thu được những công nghệ tiên tiến trên thế giới, nâng cao năng lực cạnh tranh;
-Huy động vốn và thu hút được các nhà đầu tư chiến lược có tiềm năng về tài chính – kỹ thuật – kinh nghiệm nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh để tiến tới phát triển bền vững;
-Đảm bảo nguyên tắc: Công khai, minh bạch, tăng cường sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp;
-Biết dung hòa lợi ích: giữa chủ sở hữu vốn với Ban điều hành và người lao động trong doanh nghiệp.
II.Vai trò của Luật sư tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế:
Nền kinh tế thị trường Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện đã mang đến cho các Luật sư Việt Nam nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển nghề luật sư. Song bên cạnh đó, các Luật sư Việt Nam cũng gặp phải không ít thách thức, một trong những thách thức đó là sự gia tăng ngày càng nhiều về số lượng và tính phức tạp pháp lý về nội dung các tranh chấp trong hoạt động thương mại, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, tranh chấp về đầu tư, tranh chấp về nội bộ thành viên, tranh chấp về lao động, tranh chấp về tài chính .v.v. trong doanh nghiệp.
Để đáp ứng với sự phát triển của xã hội, các Luật sư Việt Nam cần phải tự trang bị cho mình kiến thức pháp luật ( Hệ thống pháp luật Việt Nam và Các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên) cho thật vững chắc và kiến thức kinh tế - xã hội phải thật sâu rộng để làm nền tảng cho công tác tư vấn pháp lý. Khi đạt được điều kiện cần và đủ này, tôi tin rằng các đồng nghiệp sẽ có nhiều khách hàng là những doanh nghiệp có tên tuổi trong nước và trên thế giới.
III.Nhu cầu Luật sư trong thời kỳ hội nhập quốc tế:
1.Yêu cầu của Chính phủ và Bộ tư pháp Việt Nam:
1.1.Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đến năm 2020 cả nước phấn đấu có khoảng 20.000 luật sư hành nghề chuyên sâu, đạt tỷ lệ số luật sư trên số dân là 01 Luật sư/4.500 người dân, tại mỗi địa phương khó khăn về kinh tế xã hội có 30-50 luật sư, bảo đảm tham gia 100% số lượng các vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng.
1.2.Cũng đến năm 2020, cả nước phấn đấu phát triển được khoảng 30 tổ chức hành nghề luật sư có quy mô 50-100 luật sư và từ 100 luật sư trở lên họat động chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài.
2.Thực trạng năng lực Luật sư của Việt Nam trong lãnh vực tư vấn pháp luật về doanh nghiệp:
2.1.Theo thống kê đến ngày 31/12/2016, cả nước có khoảng 12.000 Luật sư và 3.508 tổ chức hành nghề luật sư, trong đó Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh có 4.467 Luật sư, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội có 3.048 Luật sư. Hơn 1/3 Luật sư đang làm việc theo Hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp trong nước hoặc Doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
2.2.Số lượng luật sư có đủ kinh nghiệm, kỹ năng tư vấn pháp luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế, đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế chỉ chiếm tỷ lệ 1,5% trong tổng số luật sư, trong đó chỉ khoảng 30 luật sư có trình độ ngang tầm với luật sư khu vực. Mới có khoảng 0,78% tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực tư vấn đầu tư, sở hữu trí tuệ, kinh doanh, thương mại cho các doanh nghiệp lớn và/hoặc rất lớn của Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài.
3.Nhu cầu Luật sư tư vấn doanh nghiệp trong xã hội Việt Nam: Trong thị trường kinh doanh ngành luật hiện nay và trong tương lai gần ( 2017 – 2020) đang có chiều hướng phát triển nhu cầu tư vấn pháp luật về doanh nghiệp rất cao. Việc đào tạo Luật sư của Học viện tư pháp cũng phải xem xét và tuân thủ quy luật “ cung - cầu” trong thời kỳ hội nhập quốc tế toàn diện của Nhà nước Việt Nam.
IV.Từ những nhận định mang tính khoa học trên, sẽ làm tiền đề để Học viện tư pháp nghiên cứu xây dựng chương trình môn Tư vấn pháp luật và hợp đồng, cũng như môn Chuyên sâu của Luật sư trong lãnh vực Tư vấn pháp luật về Doanh nghiệp:
1.Thực trạng khóa đào tạo Luật sư 06 tháng: Tất cả các học viên đều được đào tạo khá đầy đủ kỹ năng tư vấn pháp luật chung, cung cấp dịch vụ pháp lý khác, hợp đồng và kỹ năng tư vấn doanh nghiệp. Chuẩn đầu ra sẽ có kiến thức, kỹ năng tổng thể để phục vụ cho công tác tư vấn doanh nghiệp. Nhưng mặt hạn chế là thời gian đào tạo quá ngắn, nên thiếu điều kiện để thực hành và rèn luyện kỹ năng chuyên môn.
2.Thực trạng khóa đào tạo Luật sư 12 tháng:
2.1.Tách bạch 02 phần đào tạo gồm:
-Phần bắt buộc: Kỹ năng cơ bản của Luật sư trong hoạt động tư vấn, cung cấp dịch vụ pháp lý khác và Hợp đồng.
-Phần tự chọn: Kỹ năng tư vấn chuyên sâu pháp luật về doanh nghiệp.
2.2.Trên thực tế, các Học viên tự chọn Lớp Chuyên sâu của luật sư trong lãnh vực tư vấn pháp luật về doanh nghiệp rất ít, có những khóa do số lượng Học viên tự chọn không đủ số lượng để mở lớp. Riêng các khóa đào tạo tại các tỉnh phía nam ( từ Nha Trang đến Cà Mau) thì các Học viện tự chọn chuyên sâu dân sự hoặc chuyên sâu hình sự. Theo tôi đây là mặt hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đầu ra sẽ không đồng đều, bởi lẽ:
-Nếu Học viên chỉ học phần bắt buộc, nhưng không chọn học phần Kỹ năng tư vấn chuyên sâu pháp luật về doanh nghiệp. Người tốt nghiệp Chương trình đào tạo luật sư sẽ bị hạn chế về kỹ năng tư vấn pháp luật về doanh nghiệp và không thể nào tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp được;
-Nhu cầu của các ông chủ Doanh nghiệp đang cần những luật sư có kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực tư vấn đầu tư, sở hữu trí tuệ, kinh doanh trong nước, thương mại quốc tế.
3.1.Đối với Phần bắt buộc: Tôi đề xuất Học viện tư pháp nên nghiên cứu bổ sung thêm nội dung đối với Phần bắt buộc từ 02 đến 03 buổi ( giảm thời gian nghỉ hè hoặc kiến tập ngoại khóa), để các Giảng viên tọa đàm với Học viên về những kỹ năng rất cơ bản tư vấn pháp luật về các lãnh vực: Đầu tư, Sở hữu trí tuệ, thương mại quốc tế.
-Tôi đề nghị Học viện tư pháp nên nghiên cứu bổ sung thêm bài giảng mang tính chất tọa đàm với Học viên “ Kỹ năng của luật sư trong tư vấn doanh nghiệp về quản trị doanh nghiệp kết hợp quản trị luật”. Bởi lẽ, trên thực tế hành nghề luật sư tư vấn doanh nghiệp trong nhiều năm qua, tôi nhận thấy các ông chủ Doanh nghiệp rất cần 02 lãnh vực chính để phát triển kinh doanh là: quản trị doanh nghiệp và quản trị luật.
-Do đó, giáo án bài này sẽ giúp cho Học viên xác định quản trị luật trong doanh nghiệp là quản trị những vấn đề gì? quản trị như thế nào để tạo hành lang pháp lý từ các văn bản cá biệt tạo nền tảng cho doanh nghiệp phát triển tốt nhất, quản trị doanh nghiệp là quản trị những vấn đề nào? Tại sao phải quản trị doanh nghiệp?, mối quan hệ hữu cơ và song hành giữa quản trị doanh nghiệp với quản trị luật sẽ tạo ra sức mạnh to lớn cho doanh nghiệp Việt Nam phát triển một cách ổn định – bền vững trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế toàn diện hiện nay.
V.Phương pháp đào tạo môn học kỹ năng chuyên sâu của luật sư trong lĩnh vực tư vấn pháp luật về doanh nghiệp:
1.Xậy dựng tư duy nhận thức cho Học viên kết hợp với phương pháp truyền đạt của Giảng viên: Đây là yếu tố rất quan trọng, nó sẽ tạo nên những buổi học sôi động và tranh luận trên giảng đường. Buộc tất cả mọi người phải cùng tư duy, nên Học viên có thể nắm bài ngay tại lớp. Thông qua đó, Giảng viên sẽ phát hiện ra những kiến thức pháp lý và/hoặc xử lý tình huống của Học viên chưa đúng, chưa chính xác để kịp thời trao đổi nhằm tạo ra một tư duy nhận thức bài học một cách hoàn thiện nhất và phù hợp với thực tế trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
2.Kỹ năng xây dựng tư duy cho Học viên:
2.1.Tại sao Giảng viên phải thực hiện vấn đề này?:
-Do đối tượng đào tạo của Học viện tư pháp không đồng đều về lứa tuổi, họ làm nhiều ngành nghề khác nhau trong xã hội, địa vị pháp lý của họ trong xã hội cũng khác nhau, một số Học viên lớn tuổi đã tốt nghiệp Đại học luật quá lâu nên kiến thức căn bản về pháp lý có thể bị quên và/hoặc bị lỗi thời không còn phù hợp với hệ thống pháp luật mới..v..v.
-Do Học viện tư pháp chỉ đạo tạo kỹ năng hành nghề Luật sư cho Học viên, không đào tạo lại kiến thức căn bản pháp luật, vì kiến thức này các Học viên đã được trang bị tại Trường Đại học luật.
-Bên cạnh đó, môn học kỹ năng chuyên sâu của Luật sư trong lĩnh vực tư vấn pháp luật về doanh nghiệp đòi hỏi phải có một kiến thức rất rộng và đa dạng như: kiến thức pháp luật phải chính xác tuyệt đối và liên quan đến nhiều ngành – nghề kinh doanh, kiến thức xã hội phải được phổ cập liên tục, kiến thức kinh doanh và kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức về quản trị doanh nghiệp kết hợp với quản trị luật..v.v.
2.2.Phương pháp xây dựng tư duy:
-Nhằm giúp cho Học viên hiểu chúng ta sẽ học những vấn đề gì?, tại sao phải học nó?, nó có lợi như thế nào đối với một luật sư tư vấn chuyên nghiệp về doanh nghiệp?, họ biết cần phải tự bổ sung thêm những kiến thức nào cho họ để phục cho môn học này?. Từ đó Học viên sẽ tự điều chỉnh tư duy và chuẩn bị tâm lý để vượt qua được những khó khăn của môn học.
-Chính giảng viên phải cho các Học viên biết trước các vấn đề trên, tạo một áp lực tâm lý buộc họ phải tự chuyển biến tư duy từ thụ động sang tư duy chủ động hơn và sáng tạo hơn trong học tập. Trong giờ đầu trên giảng đường có thể tạo ra “ những cú sốc tâm lý tức thời” cho Học viên, nhưng bước sang giờ học thứ 2, thứ 3 họ sẽ bắt kịp và đam mê tranh luận hoặc đặt ra các câu hỏi “ rất thực tế và hóc búa”. Lúc này, chính Học viên sẽ chủ động “ chất vấn lại giảng viên” tạo ra một áp lực mới về tâm lý cho Giảng viên, buộc Giảng viên phải xử lý thông tin một cách chính xác về pháp lý, phù hợp với thực tế trong hoạt động kinh doanh và nhanh chóng. Kết thúc buổi giảng, cả thầy lẫn trò đều cảm thấy một sự hưng phấn và đam mê môn tư vấn chuyên sâu pháp luật về doanh nghiệp, bởi tất cả chúng ta đã tự học hỏi lẫn nhau về những cái mới trong một buổi giảng quá ngắn. Tiếp theo, là những cuộc điện thoại và/hoặc gửi email giữa thầy trò để cùng nhau giải quyết những tình huống pháp lý liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nơi mà các Học viên đang công tác.
3.Phương pháp truyền đạt của Giảng viên:
Phương pháp giảng bài đối thoại trực tiếp kết hợp truyền đạt theo sơ đồ thông minh. Đòi hỏi giảng viên phải có nhiều kinh nghiệm thực tiễn về doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài, nắm vững hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như các điều ước tế mà Việt Nam là thành viên và mối liên hệ qua lại mang tính khoa học pháp lý giữa các ngành luật của Việt Nam với các điều ước quốc tế và/hoặc mối liên hệ trực tiếp giữa bài giảng này với các bài giảng khác trong môn Kỹ năng tư vấn chuyên sâu pháp luật về doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Giảng viên phải chuẩn bị tâm lý thật tốt để xử lý các tình huống diễn ra trên giảng đường khi các Học viên phản biện lại. Để buổi giảng đạt chất lượng tốt, thì Giảng viên phải chuẩn bị rất kỹ lưỡng theo một quy trình nghiên cứu bài giảng như sau
3.1.Bước một: Nghiên cứu giáo trình và soạn giáo án giảng dạy
-Giảng viên phải căn cứ vào những yêu cầu của giáo trình do Học viện tư pháp đưa ra, nghiên cứu từng “câu chữ” và “ xác định bản chất của từng vấn đề cần truyền đạt kiến thức cho Học viên”;
-Giảng viên sắp xếp lại theo một trật tự mang tính lôgic giữa các nội dung của giáo trình, xác định những ngành luật Việt Nam và điều ước quốc tế cùng tham gia điều chỉnh, chuẩn bị một số tình huống liên quan đến bài giảng và phương án giải quyết ( Lý luận và thực tiễn).
-Tiến hành soạn giáo án giảng dạy chi tiết, kiểm tra lần cuối xem cần bổ sung thêm phần nào trong giáo án giảng dạy hay không?.
3.2.Bước hai: Căn cứ vào giáo án giảng dạy đã được soạn để thiết kế các sơ đồ thông minh phục vụ cho phương pháp giảng đối thoại trên giảng đường
-Xây dựng sơ đồ thông minh tổng quát.
-Xây dựng sơ đồ thông minh chi tiết cụ thể từng vấn đề quan trọng của giáo án giảng dạy.
3.3.Bước 3: Tâm huyết với nghề luật sư và không giấu nghề với Học viên
-Trước buổi giảng photocopy toàn bộ sơ đồ thông minh cho từng Học viên nghiên cứu trước khoảng 05 đến 10 phút tại giảng đường.
-Sau buổi giảng gửi giáo án giảng dạy cho lớp trưởng photocopy cho tất cả Học viên trong lớp tự nghiên cứu thêm và bổ sung kiến thức.
VI.Các yêu cầu tiêu chuẩn đầu ra của môn tư vấn chuyên sâu pháp luật về doanh nghiệp:
Trên thực tế, Luật sư tư vấn chuyên nghiệp cho Doanh nghiệp đòi hỏi rất cao về kiến thức tổng hợp (Luật – kinh doanh – thương mại – xã hội) và kinh nghiệm giải quyết các trường hợp pháp lý diễn ra trong doanh nghiệp hàng ngày. Công việc của Luật sư tư vấn doanh nghiệp rất nhiều, tốc độ xử lý thông tin rất nhanh và rủi ro trong kinh doanh cũng rất cao.
Trong bài tham luận này, tôi xin phép giới hạn tiêu chuẩn đầu ra của môn kỹ năng tư vấn chuyên sâu pháp luật về doanh nghiệp của Học viện tư pháp tương ứng với 100 tiết lý thuyết và thực hành như sau
1.Về kiến thức: Hiểu và vận dụng các kiến thức cơ bản về chuyên sâu mang tính pháp lý liên quan trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp như:
-Quy trình thủ tục thành lập Doanh nghiệp đối với cá nhân – tổ chức góp vốn là công dân – pháp nhân Việt Nam hoặc với thương nhân nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam hoặc cá nhân – tổ chức nước ngoài đầu tư gián tiếp vào doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc góp vốn; Những ngành nghề kinh doanh có điều kiện khi làm thủ tục thành lập doanh nghiệp; Xây dựng điều lệ doanh nghiệp; Trình tự và phương pháp góp vốn để thành lập doanh nghiệp; Những đối tượng không được thành lập doanh nghiệp và cách giải quyết.
-Phương pháp xây dựng các văn bản cá biệt trong nội bộ doanh nghiệp; Quy trình ban hành quyết định của Tổng Giám đốc và/hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên và/hoặc quy trình ban hành nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông/ Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên; Những nguyên tắc quản trị nội bộ doanh nghiệp nhằm tránh xung đột giữa Hội đồng quản trị/ Hội đồng thành viên với Ban kiểm soát hoặc giữa Người quản lý với Ban điều hành doanh nghiệp; Phân biệt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa người quản lý với người điều hành trong doanh nghiệp; Phương pháp xây dựng hệ thống các văn bản cá biệt trong Doanh nghiệp.
-Xác định được khi nào cần phải tiến hành tổ chức lại doanh nghiệp và quy trình tổ chức lại doanh nghiệp; Phân biệt các loại hình doanh nghiệp, cấu trúc của từng loại hình doanh nghiệp và lợi thế của từng loại hình doanh nghiệp; Cấu trúc của tập đoàn Nhà nước và mô hình công ty mẹ với công ty con, phân biệt tính pháp lý các trường hợp chia – tách hoặc sáp nhập - hợp nhất doanh nghiệp; Kỹ năng mua bán doanh nghiệp tư nhân/ Công ty cổ phần/Công ty TNHH.
-Nguyên tắc quản lý chi – thu tài chính trong doanh nghiệp dựa trên 02 tiêu chí gồm Luật kế toán và thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông/Hội đồng quản trị/ Hội đồng thành viên/ Tổng Giám đốc; Tính độc lập tuyệt đối của kế toán trưởng trong hoạt động tài chính; Nhận biết các loại vốn trong doanh nghiệp và sự hình thành – lưu chuyển của đồng vốn; Các quỹ bắt buộc doanh nghiệp phải thành lập và nguyên tắc sử dụng các loại quỹ.
-Nguyên tắc xác định các loại thuế trong doanh nghiệp; Phương pháp tính thuế; Quy trình thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp; nhận biết về các loại thuế cơ bản gồm thuế môn bài, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt.
-Xác định pháp luật về quan hệ lao động, quyền & nghĩa vụ của người sử dụng lao động/người lao động; Kỹ năng giải quyết các tranh chấp lao động và vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp; phương pháp dung hòa quyền lợi giữa người sử dụng lao động với người lao động; Nguyên tắc thực hiện các chế độ cho người lao động gồm Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm Y tế và Bảo hiểm thất nghiệp; Kỹ năng thực hiện hợp đồng lao động và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
-Xây dựng được quy chế và/hoặc xây dựng phương án sử dụng quỹ đất của doanh nghiệp sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất; trình tự thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất/ xin đổi mục đích sử dụng đất; Nguyên tắc đầu tư góp vốn bằng quỹ đất của doanh nghiệp ra ngoài doanh nghiệp.
-Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ; Xây dựng quy chế bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp/ quyền tác giả/ quyền liên quan đến quyền tác giả trong doanh nghiệp; Kỹ năng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp khi doanh nghiệp bị xâm phạm.
-Quy trình, thủ tục đầu tư theo hình thức PPP ( BOT, BTO, BT) hoặc đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh ( BCC); Mối quan hệ giữa Luật đầu tư với các ngành luật khác gồm Luật doanh nghiệp/Luật kinh doanh bất động sản/ Luật chuyển giao công nghệ/Luật đấu thầu/ Luật tài nguyên và môi trường trong dự án đầu tư.
2.Về kỹ năng: Hiểu và vận dụng các kỹ năng cơ bản của luật sư khi tư vấn cho doanh nghiệp thể hiện như sau
-Kỹ năng phân tích nội dung yêu cầu tư vấn pháp luật của doanh nghiệp.
-Kỹ năng phân tích tổng hợp các tài liệu liên quan đến tư vấn do Doanh nghiệp cung cấp cho Luật sư để tìm ra các điểm mấu chốt của vấn đề cần phải tư vấn.
-Kỹ năng xác định đúng các ngành luật và mối liên hữu cơ của ( hệ thống pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên) cùng tham gia điều chỉnh từng nội dung yêu cầu tư vấn của Doanh nghiệp.
-Kỹ năng soạn thảo văn bản trả lời tư vấn cho Doanh nghiệp, đảm bảo nguyên tắc chính xác pháp lý, dễ hiểu và chỉ hiểu theo một nghĩa duy nhất. Các kỹ năng hạn chế rủi ro tối đa khi Học viên thực hiện tư vấn pháp luật.
-Thông qua kỹ năng tư vấn trên, Học viên sẽ có thêm kỹ năng giải quyết các tranh chấp thương mại, giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ Việt Nam và giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế bằng các hình thức giải quyết như: thương lượng, hòa giải; trọng tài thương mại; Tòa án.
Trong suốt khóa đạo tạo của Học viện tư pháp ngoài môn đạo đức hành nghề luật sư ra, thì tại từng môn học khác các Giảng viên vẫn đề cập đạo đức luật sư cho Học viên tại từng tình huống cụ thể trong bài giảng.
Riêng môn tư vấn chuyên sâu pháp luật về doanh nghiệp còn phải trao đổi thêm cho Học viên về đạo đức kinh doanh, bởi lẽ “ thương trường là chiến trường”, cho nên thương nhân có thể “ sử dụng mọi thủ đoạn trong kinh doanh để đạt được mục đích”. Do đó, cần trang bị thêm cho Học viên về kiến thức cơ bản của đạo đức kinh doanh, nhằm giúp Học viện giải quyết các tình huống trong quá trình tư vấn pháp luật cho Doanh nghiệp sau này.
-Nhận thức chuẩn mực 02 nguyên tắc hành nghề luật sư, ưu tiên một là bảo vệ nền pháp chế XHCN Việt Nam, ưu tiên hai là bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng ( gồm: cá nhân, tổ chức, Doanh nghiệp);
-Có thái độ ứng xử nghề nghiệp chuyên nghiệp, tôn trọng pháp luật và công lý trong các mối quan hệ với khách hàng, tổ chức, cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan quản lý Nhà nước;
-Có tinh thần trách nhiệm, thận trọng khi tư vấn pháp luật cho Doanh nghiệp;
-Tuân thủ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, cũng như đạo đức trong kinh doanh.
VII.Để đạt chuẩn đầu ra nêu trên, Học viện tư pháp cần nghiên cứu một số giải pháp chủ yếu như sau:
1.Trong quá trình xây dựng nội dung chương trình đào tạo môn tư vấn chuyên sâu pháp luật về doanh nghiệp cần lưu ý:
-Thông qua những buổi trao đổi kinh nghiệm giảng dạy ( Giảng viên cơ hữu và Giảng viên thỉnh giảng) cần có sự thống nhất khi soạn giáo án giảng dậy phải tuân thủ và bám sát giáo trình đề cương từng bài học trong môn do Học viện tư pháp hướng dẫn;
-Thống nhất phương pháp truyền tải kiến thức theo phương pháp đối thoại trực tiếp có áp dụng linh hoạt lý luận với thực tiễn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế;
-Hồ sơ tình huống cần được sửa đổi bổ sung, không nên lấy hồ sơ cũ và chỉ sửa ngày/tháng/năm. Bởi trong nền kinh tế thị trường hiện nay các tranh chấp phát sinh rất đa dạng. Tăng thời lượng thực hành của từng bài lên (gồm: Tư vấn thành lập doanh nghiệp, Tư vấn tổ chức lại doanh nghiệp, Tư vấn đầu tư, Tư vấn sở hữu trí tuệ, Tư vấn quản trị điều hành doanh nghiệp “ quản lý nội bộ doanh nghiệp”). Vì đây là những vấn đề pháp lý rất quan trọng sẽ giúp cho Học viên khi tốt nghiệp có thể đáp ứng được các nhu cầu mà Doanh nghiệp đang cần.
2.Phương pháp kiểm tra đánh giá chất lượng giảng dạy: trên thực tế có rất nhiều tiêu chí khác nhau để kiểm tra đánh giá chất lượng giảng dạy của từng Giảng viên. Trong bài tham luận này, tôi xin phép chỉ đưa ra 03 phương pháp căn bản như sau
2.1.Học viên đánh giá Giảng viên: Theo quan điểm của cá nhân tôi, thì tiêu chí này là chính xác nhất. Bởi họ là người bỏ tiền ra để mua kiến thức, Học viên là người tiếp cận trực tiếp với Giảng viên, nên việc nhận xét của họ về một Giảng viên như: Phương pháp truyền đạt trong giảng dạy; Phong cách; Tâm huyết nghề nghiệp, là rất đúng.
2.2.Giảng viên đánh giá Học viên: Thông qua bài học trên giảng đường, Giảng viên sẽ đánh giá Học viên về: Tinh thần học tập; Tỷ lệ % Học viên tiếp thu được kiến thức ngay trên giảng đường; Đánh giá một cách tương đối khả năng vận dụng kiến thức đã học của Học viên vào thực tế trong tư vấn Doanh nghiệp.
2.3.Dự giờ giảng để đánh giá chất lượng của Giảng viên và Học viên: Hội đồng đánh giá cần phân công một số Giảng viên cơ hữu tham gia dự một vài buổi giảng của mỗi Giảng viên ( Giảng viên cơ hữu và Giảng viên thỉnh giảng). Thông qua đó, kiểm tra tổng quát về chất lượng đào tạo và phát hiện những hạn chế của Giảng viên cũng như của Học viên, nhằm góp ý xây dựng hoàn thiện chương trình đào tạo của Học viện tư pháp.
Bài tham luận của tôi chỉ nhằm mục đích duy nhất để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Thực tế trên 12 năm hành nghề luật sư về tư vấn doanh nghiệp, cộng với quá trình tham gia giảng dạy tại Học viên tư pháp từ khóa 8 đến khóa 17 môn tư vấn cơ bản và tư vấn chuyên sâu về doanh nghiệp, bản thân tôi xin phép đúc kết ngắn gọn súc tích vài dòng trên để cùng chia sẻ với Qúy vị .
Trân trọng cám ơn các thầy cô Học viện tư pháp đã tin tưởng, tạo điều kiện cho tôi được tham gia đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp chung của Học viện.
Luật sư – Luật gia – Trọng tài viên PIAC: TRẦN CAO PHÚ